Bệnh lý tủy cổ là gì? Các công bố khoa học về Bệnh lý tủy cổ

Bệnh lý tủy cổ là một tình trạng lâm sàng mà tủy xương ở dạng cổ bị tổn thương hoặc bị mắc phải các vấn đề vàng dầy. Tủy cổ là phần nguyên bào của tủy xương, đặ...

Bệnh lý tủy cổ là một tình trạng lâm sàng mà tủy xương ở dạng cổ bị tổn thương hoặc bị mắc phải các vấn đề vàng dầy. Tủy cổ là phần nguyên bào của tủy xương, đặc trưng bởi khả năng sản xuất các loại tế bào máu mới. Khi tủy cổ bị tổn thương, quá trình hình thành tế bào máu có thể bị ảnh hưởng, gây ra các triệu chứng và biểu hiện khác nhau như thiếu máu, suy giảm hệ miễn dịch, hay khả năng chữa lành kém. Các nguyên nhân gây ra bệnh lý tủy cổ có thể là do di truyền, tác động từ chất độc, vi trùng hoặc vi khuẩn, hoặc liên quan đến các bệnh tự miễn dịch. Việc chẩn đoán và điều trị bệnh lý tủy cổ thường được thực hiện bởi các chuyên gia huyết học và tủy xương.
Bệnh lý tủy cổ có thể được chia thành nhiều dạng khác nhau, bao gồm các bệnh lý tủy cổ do di truyền, hiếm gặp như bệnh lý tủy cổ đồng thể, bệnh lạc tủy cổ, và bệnh bả nhôm tủy cổ.

Bệnh lý tủy cổ đồng thể là một bệnh di truyền gen do các đột biến gen nằm trên tuyến trái nhóm gen tạo ra các quy luật tổ hợp khác nhau. Bệnh này dẫn đến mất khả năng tạo ra các tế bào máu bình thường, gắn kết với triệu chứng thiếu máu, nhiễm trùng và xuất huyết.

Bệnh lạc tủy cổ là một trạng thái khi tủy cổ không nằm trong vị trí bình thường của nó trong xương cổ. Điều này có thể xảy ra do các vấn đề về phát triển và hình thành xương hàm.

Bệnh bả nhôm tủy cổ là một bệnh lý tái phát sau khi điều trị yếu tố tang kiềm (alkylating agents), là một loại thuốc chủ yếu được sử dụng trong điều trị ung thư. Bệnh này gây tổn thương tủy cổ và làm mất khả năng tạo ra các tế bào máu trong tủy xương.

Các triệu chứng và biểu hiện của bệnh lý tủy cổ có thể thay đổi tùy thuộc vào loại bệnh và mức độ tổn thương. Một số triệu chứng phổ biến bao gồm mệt mỏi, suy giảm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, huyết áp thấp, nhiễm trùng và xuất huyết.

Để chẩn đoán bệnh lý tủy cổ, bác sĩ thường yêu cầu xét nghiệm máu để đánh giá các chỉ số máu, xét nghiệm tủy xương để kiểm tra cấu trúc tủy cổ và tìm hiểu nguyên nhân bệnh. Điều trị bệnh lý tủy cổ thường nhằm điều trị các triệu chứng và cải thiện chất lượng sống của bệnh nhân, bao gồm điều trị nhiễm trùng, đặc biệt là bằng kháng sinh, và truyền máu để điều chỉnh các mức tế bào máu. Đôi khi, việc cấy tủy xương từ nguồn tủy xương mới có thể được thực hiện để tái tạo chức năng sản xuất tế bào máu.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh lý tủy cổ":

Bệnh lý mắt liên quan đến tuyến giáp và các chỉ dấu sinh học: Chúng ta đang ở đâu và có thể hy vọng gì cho tương lai Dịch bởi AI
Disease Markers - Tập 2018 - Trang 1-9 - 2018

Đặt bối cảnh. Bệnh lý mắt liên quan đến tuyến giáp (TAO) là bệnh tự miễn phổ biến nhất ở vùng hốc mắt. Bệnh thường xảy ra nhiều hơn ở những bệnh nhân gặp phải tình trạng cường giáp, đặc trưng bởi bệnh Graves, nhưng cũng có thể liên quan đến suy giáp hoặc trạng thái tuyến giáp bình thường. Chẩn đoán TAO dựa trên các đặc điểm lâm sàng của hốc mắt, tiêu chí hình ảnh và mối liên hệ tiềm tàng với bệnh tuyến giáp. Đến nay, chưa có một chỉ thị cụ thể nào cho bệnh lý ở hốc mắt, khiến việc chẩn đoán sớm trở nên khó khăn, đặc biệt nếu tổn thương ở hốc mắt xảy ra trước khi có rối loạn chức năng tuyến giáp.Tóm tắt. Mục tiêu của bài đánh giá này là trình bày về căn bệnh và tổng hợp dữ liệu hiện có trong tài liệu liên quan đến việc điều tra các chỉ dấu sinh học của TAO.Kết luận. Dù đã có những tiến bộ trong việc hiểu biết về bệnh TAO, vẫn còn thiếu một số thông tin quan trọng. Thông thường, trong tương lai, cần phải có những nỗ lực lớn trong việc phát hiện ra các chỉ dấu sinh học mới, xác nhận các ứng cử viên khả nghi trên các tập hợp đa trung tâm với các phương pháp đều đặn, và thiết lập các hiệu suất lâm sàng của chúng trong các lĩnh vực ứng dụng lâm sàng cụ thể nhằm không chỉ cải thiện quản lý cho bệnh nhân TAO mà còn các lựa chọn điều trị và theo dõi.

KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU PHẪU THUẬT ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ TỦY CỔ ĐA TẦNG DO THOÁI HÓA TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 515 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu nhằm đánh giá kết quả bước đầu phẫu thuật điều trị bệnh lý tủy cổ đa tầng dothoái hóa (M-CSM). Phươngpháp nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng đánh giá kết quả trước và sau phẫu thuật 30 bệnh nhân phẫu thuật bệnh lý tủy cổ đa tầng do thoái hóa từ tháng 6 năm 2019 đến tháng 8 năm 2021 tại Khoa chấn thương chỉnh hình và cột sống, Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Tuổi trung bình (TB) 63,10 ± 9,82 (39-79 tuổi), 19 bệnh nhân nam (63,3%), 11 bệnh nhân nữ (36,7%). Tỷ lệ Nam/Nữ ≈ 2/1. Thời gian khám lại trung bình 13,13 tháng. Điểm mJOA trước mổ, sau mổ và khám lại lần lượt là 10,17 13,53 và 16,17. Tỷ lệ hồi phục hội chứng tủy cổ(RR) sau mổ và khám lại lần lượt là 45,46% và 76,69%.BN có thời gian khởi phát bệnh ³6 tháng có RR thấp hơn tại thời điểm khám lại cuối cùng (p=0,021). Góc gù vùng và góc C2-C7 ởBN PTLT cao hơn so với PTLS (p lần lượt 0,006 và 0,029). PTLS có thời gian mổ ngắn hơn nhưng mất máu nhiều hơn PTLT (p<0,001). Kết luận: Phẫu thuật điều trị M-CSM bước đầu cho kết quả hồi phục tốt ở cả hai đường mổ.
#Bệnh lý tủy cổ do thoái hóa #kết quả phẫu thuật bước đầu
CHỈ SỐ TORG-PAVLOV TRÊN X-QUANG VÀ CỘNG HƯỞNG TỪ Ở BỆNH NHÂN PHẪU THUẬT BỆNH LÝ TỦY CỔ ĐA TẦNG DO THOÁI HÓA TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 513 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu đánh giá chỉ số Torg-Pavlov ở bệnh nhân phẫu thuật bệnh lý tủy cổ đa tầng do thoái hóa và mối liên quan với hội chứng tủy cổ trước và sau mổ. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang bao gồm 30 bệnh nhân phẫu thuật bệnh lý tủy cổ đa tầng do thoái hóa từ tháng 6 năm 2019 đến tháng 8 năm 2021 tại Khoa chấn thương chỉnh hình và cột sống, Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Tuổi trung bình 63,10 ± 9,82 tuổi, (39 - 79 tuổi), 19 bệnh nhân nam (63,3%), 11 bệnh nhân nữ (36,7%). Tỷ lệ Nam/Nữ ≈ 2/1. Chỉ số Torg-Pavlov trung bình đoạn C3-C6 và C3-C7 trên Xquang lần lượt là 0,74 ± 0,09, 0,74 ± 0,09 và trên MRI lần lượt là 0,76 ± 0,07, 0,77 ± 0,07. Chỉ số Torg-Pavlov trung ở bệnh nhân < 60 tuổi, nữ giới có xu hướng cao hơn so với bệnh nhân ≥60 tuổi, nam giới. Bệnh nhân có chỉ số Torg-Pavlov đo trên Xquang ≥0,8 đều có các giá trị trung bình của mJOA trước mổ, mJOA sau mổ, RR sau mổ và khám lại lớn hơn so với nhóm <0,8, tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Kết luận: Chỉ số Torg-Pavlov ở bệnh nhân phẫu thuật bệnh lý tủy cổ đa tầng do thoái hóa thấp hơn so với người Việt Nam bình thường. Chỉ số Torg-Pavlov ở bệnh nhân < 60 tuổi, nữ giới có xu hướng cao hơn bệnh nhân ≥60 tuổi, nam giới. 
#Chỉ số Torg-Pavlov #bệnh lý tủy cổ đa tầng do thoái hóa #thoái hóa cột sống cổ
ĐẶC ĐIỂM XQUANG CỦA BỆNH NHÂN CÓ RĂNG HÀM SỮA CẦN ĐIỀU TRỊ LẤY TUỶ BUỒNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 2 - 2023
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm Xquang của một nhóm bệnh nhân từ 4-8 tuổi, có các răng hàm sữa được chỉ định lấy tủy buồng. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 173 trẻ từ 4-8 tuổi, có răng hàm sữa sâu có chỉ định điều trị tuỷ buồng; trẻ được khám lâm sàng và chụp Xquang để đánh giá tình trạng lỗ sâu cũng như tình trạng của tổ chức quanh răng. Kết quả: Đa số các răng có tổn thương ở giai đoạn 2 nhưng vẫn có tới 28,0% răng 85 và 25,0% răng 55 bị tổn thương khi đang ở giai đoạn 1; Tỷ lệ lỗ sâu thông thương buồng tuỷ trên Xquang được chẩn đoán là viêm tuỷ không hồi phục chiếm tỷ lệ cao nhất trong các bệnh lý, tỷ lệ này là 26,6% ở răng 84, tiếp đến là răng 54 (25,8%) và thấp nhất ở răng 55 (10,5%). Không gặp các răng có hội chứng vách. Kết luận: Tất cả các răng có lỗ sâu đã thông thương với buồng tuỷ trên phim Xquang đều bị viêm tuỷ hoặc hoại tử tuỷ. Các răng hàm sữa hàm dưới có tỷ lệ hoại tử tuỷ có và không có biến chứng nha chu cao hơn các răng hàm trên.
#răng hàm sữa #bệnh lý tuỷ #lấy tuỷ buồng #Xquang răng sữa
Chụp Cộng Hưởng Từ Toàn Cơ Thể: Ứng Dụng Không Ung Thư Trong Nhi Khoa Dịch bởi AI
La radiologia medica - Tập 121 - Trang 454-461 - 2016
Chụp cộng hưởng từ toàn cơ thể (WBMRI) là một phương pháp nhanh chóng và chính xác để phát hiện và theo dõi các bệnh lý trên toàn bộ cơ thể mà không phải chịu tác động của bức xạ ion hóa. Trong số các ứng dụng tiềm năng không phải ung thư của WBMRI đang nổi lên, các bệnh lý thần kinh xương khớp đóng vai trò quan trọng. Các ứng dụng WBMRI trong thần kinh xương khớp bao gồm đánh giá viêm tủy xương mãn tính đa ổ tái phát, viêm da cơ, sốt không rõ nguyên nhân, viêm khớp, và các bệnh liên kết mô. Mục tiêu của bài tổng quan này là để cung cấp cái nhìn tổng quan về việc sử dụng WBMRI trong lĩnh vực thần kinh xương khớp.
#chụp cộng hưởng từ toàn cơ thể #ứng dụng không ung thư #bệnh lý thần kinh xương khớp #viêm tủy xương #viêm khớp
Báo cáo trường hợp và tổng quan tài liệu Dịch bởi AI
Journal of Neuro-Oncology - - 2006
Gliomatosis màng não lan tỏa nguyên phát (PDLG) là một khối u thần kinh trung ương hiếm gặp, trong đó mô glioma được xác định lan tỏa trong khoảng không dưới nhện mà không có bằng chứng của một khối u nội sọ nguyên phát. Một người đàn ông 52 tuổi đã trình bày triệu chứng đau lưng dưới đi kèm với sự bất tỉnh đột ngột và có rối loạn nhận thức cùng với dấu hiệu màng não. Các xét nghiệm dịch não tủy (CSF) không cho thấy tế bào ác tính nhưng có sự gia tăng protein và pleocytosis. Hình ảnh cộng hưởng từ (MR) cho thấy sự tăng cường màng não lan tỏa mà không có nguồn gốc của tổn thương nội sọ. Phương pháp khôi phục hồi tín hiệu bị suy giảm (FLAIR) cũng cho thấy khu vực có độ sáng cao lan tỏa trong khoảng không dưới nhện. Sinh thiết cho thấy sự phân bố rộng rãi của các tế bào thần kinh ác tính trong màng não. Ông đã qua đời 3 tháng sau đó do sự tiến triển của bệnh mặc dù đã được điều trị bằng xạ trị và hóa trị liệu. Khám nghiệm tử thi xác định PDLG và một số đặc điểm bệnh lý thần kinh của glioblastoma. Việc xem xét các trường hợp trước đây của PDLG cho thấy thực thể này hiếm, có biểu hiện lâm sàng giống như viêm màng não, thường xảy ra ở một quần thể trẻ tuổi hơn và có diễn tiến lâm sàng tiến triển hơn so với dạng u glioma ác tính thông thường.
#gliomatosis màng não lan tỏa nguyên phát #bệnh lý thần kinh trung ương #dịch não tủy #hình ảnh cộng hưởng từ #glioblastoma
Bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt ít có khả năng phát triển ung thư biểu mô tuyến thực quản: hormone androgen có thể có vai trò trong sinh bệnh học của ung thư biểu mô tuyến thực quản? Dịch bởi AI
Cancer Causes & Control - Tập 20 Số 8 - Trang 1363-1368 - 2009
Ung thư biểu mô tuyến thực quản (OAC) thường gặp hơn ở nam giới. Các androgen do đó có thể góp phần vào bệnh sinh của OAC. Ung thư tuyến tiền liệt (PC), một khối u nhạy cảm với androgen có lịch sử tự nhiên lâu dài, có thể cung cấp cái nhìn về sự liên quan tiềm năng này. Dữ liệu từ Đơn vị Thông tin Ung thư West Midlands giai đoạn 1977 đến 2004 đã được kiểm tra để xác định bệnh nhân có khối u ác tính chính đầu tiên là PC. Bệnh nhân được theo dõi cho đến khi chẩn đoán khối u ác tính chính thứ hai, tử vong hoặc kết thúc thời gian nghiên cứu. Tỷ lệ chuẩn hóa theo tuổi và thời gian (SIR) đã được tính toán như một ước lượng về nguy cơ tương đối của khối u ác tính chính thứ hai tại thực quản. Giữa năm 1977 và 2004, có 44,819 nam giới trong khu vực West Midlands phát triển PC như một khối u ác tính chính đầu tiên. Sau khi loại trừ những bệnh nhân không có sự theo dõi, có 38,627 nam giới đủ điều kiện, cung cấp 143,526 năm người có nguy cơ để phân tích. Có 86 trường hợp khối u ác tính thứ hai tại thực quản được quan sát, so với 110 trường hợp dự kiến, tạo ra một SIR là 0.78 (95% CI 0.62–0.96). Có một nguy cơ giảm OAC là 0.7 (0.5–0.95) nhưng không có nguy cơ giảm đối với ung thư biểu mô tế bào vảy thực quản (OSCC) là 1.03 (0.69–1.47). Nguy cơ phát triển OAC, nhưng không phải OSCC, thấp hơn so với mong đợi ở những bệnh nhân mắc PC. Chẩn đoán PC có thể liên quan đến các yếu tố nguyên nhân có liên quan nghịch đảo với OAC, hoặc liệu pháp chống androgen có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của OAC.
#ung thư biểu mô tuyến thực quản #ung thư tuyến tiền liệt #androgen #bệnh sinh học #tỷ lệ tiêu chuẩn hóa
Công nghệ vô tuyến điện tử trong điện tâm đồ siêu cao phân giải phục vụ chẩn đoán sớm các bệnh lý tim mạch Dịch bởi AI
Allerton Press - - 2014
Nền tảng, đặc điểm và tính chất của phương pháp điện tâm đồ siêu cao phân giải (UHR ECG) và vị trí của nó trong số các phương pháp điện tâm đồ tiên tiến khác đã được mô tả. Các phương pháp và công nghệ vô tuyến điện tử sử dụng trong việc phát triển các thiết bị xử lý ban đầu tín hiệu điện tim (ECS) và các thuật toán xử lý thứ cấp của chúng bằng phương pháp UHR ECG đã được xem xét. Hơn nữa, kỹ thuật thực hiện các cuộc điều tra thực nghiệm trên động vật thí nghiệm và ghi lại dữ liệu ECG cũng đã được xem xét trong quá trình tìm kiếm các dấu hiệu chẩn đoán mới của các bệnh lý tim mạch. Các khả năng thu thập thông tin liên quan đến sự phát triển của bệnh tim thiếu máu cục bộ thông qua các tín hiệu ECG được ghi lại bằng phương pháp UHR ECG cũng đã được mô tả.
#điện tâm đồ siêu cao phân giải #bệnh lý tim mạch #xử lý tín hiệu điện tim #công nghệ vô tuyến điện tử #bệnh tim thiếu máu cục bộ
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự xuất hiện của bệnh bạch cầu hệ thần kinh trung ương Dịch bởi AI
Blood - Tập 42 - Trang 935-938 - 1973
Hiện nay, bệnh bạch cầu hệ thần kinh trung ương (CNS) là một trong những nguyên nhân chính gây ra sự kết thúc của tình trạng thuyên giảm hoàn toàn trong bệnh bạch cầu lympho cấp tính (ALL). Các yếu tố ảnh hưởng đến sự gia tăng xâm lấn CNS đã được nghiên cứu so sánh các thông số khác nhau (tuổi, số lượng bạch cầu ngoại vi ban đầu, loại bạch cầu, và sự hiện diện hoặc vắng mặt của sự phình to cơ quan ban đầu) để xác định nhóm bệnh nhân bạch cầu mà có nguy cơ cao nhất phát triển hội chứng này. Tổng cộng có 127 trường hợp bệnh bạch cầu lympho cấp tính (ALL) (98 trẻ em và 29 người lớn) và 101 trường hợp bệnh bạch cầu tủy cấp tính (AML) (41 trẻ em và 60 người lớn), đều nằm trong cùng một phác đồ điều trị từ năm 1967 đến 1970, đã được đưa vào nghiên cứu này. Thời gian sống trung bình và tỷ lệ mắc bệnh bạch cầu CNS có triệu chứng lần lượt là 18 tháng và 32% ở bệnh nhân ALL, và 4 tháng và 7% ở bệnh nhân AML. Tỷ lệ bệnh bạch cầu CNS theo tháng sống là tương tự trong cả hai nhóm: 4 tháng, 3% ở AML và 4% ở ALL; tại 8 tháng, 13% ở cả ALL và AML. Tỷ lệ mắc bệnh bạch cầu CNS cao hơn ở trẻ em mắc ALL so với người lớn: 41% ở trẻ em và 19% ở người lớn tại thời điểm sống 20 tháng. Sự phình to cơ quan (lá spleen, gan và/hoặc hạch bạch huyết) như một biểu hiện sớm đã làm tăng nguy cơ xâm lấn CNS. Sự xâm lấn CNS ở bệnh nhân có số lượng bạch cầu ngoại vi ban đầu cao cũng đáng kể hơn. Tỷ lệ bệnh bạch cầu màng não không có sự khác biệt giữa ALL và AML. Tóm lại, sự xâm lấn bạch cầu CNS xảy ra thường xuyên hơn ở trẻ em có sự phình to cơ quan ban đầu và số lượng bạch cầu cao tại thời điểm chẩn đoán.
#bệnh bạch cầu #hệ thần kinh trung ương #bạch cầu lympho cấp tính #bạch cầu tủy cấp tính #xâm lấn CNS #phình to cơ quan #trẻ em #người lớn
So sánh tỷ lệ tử vong tất cả các nguyên nhân giữa một nhóm lớn bệnh nhân bị teo cơ phân ly tủy sống so với các đối chứng phù hợp Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 11 - Trang 449-457 - 2021
Có rất ít thông tin về khả năng sống sót của bệnh nhân teo cơ phân ly tủy sống (SMA) vào giai đoạn trưởng thành, đặc biệt là từ các mẫu dân số. Chúng tôi đã ước lượng và so sánh tỷ lệ tử vong theo độ tuổi, tất cả các nguyên nhân ở bệnh nhân SMA và các đối chứng được ghép nối trong một nghiên cứu hồi cứu lớn, sử dụng hồ sơ sức khỏe điện tử (EHRs) từ thời kỳ trước điều trị. Cơ sở dữ liệu EHR vô danh của Optum® Mỹ chứa hồ sơ sức khỏe điện tử cho ~ 104 triệu người (thời gian nghiên cứu: từ 1 tháng 1 năm 2007 đến 22 tháng 12 năm 2016). Các trường hợp SMA được xác định bằng một hoặc nhiều mã phân loại quốc tế về bệnh tật, phiên bản thứ chín hoặc thứ mười cho SMA. Các đối chứng không có mã chẩn đoán SMA được ghép nối theo tỷ lệ 10:1 với các trường hợp SMA dựa trên năm sinh, giới tính và ngày chẩn đoán đầu tiên. Đối với cả hai nhóm, yêu cầu có ít nhất 1 tháng quan sát và (nếu đã tử vong) một ngày tử vong hợp lệ để được đưa vào nghiên cứu. Tỷ lệ tử vong theo độ tuổi trên mỗi năm người (PY) và tỷ số nguy cơ được tính toán. Năm ngàn một trăm bảy mươi chín trường hợp SMA và 51.152 đối chứng đã được phân tích. Tỷ số nguy cơ tổng thể so sánh các trường hợp với các đối chứng là 1.76 (Khoảng tin cậy 95% 1.63–1.90). Ở bệnh nhân chỉ có mã chẩn đoán SMA loại III, tỷ lệ tử vong tất cả độ tuổi là 1059/100.000 PY ở các trường hợp và 603/100.000 PY ở các đối chứng. Trong các nhóm tuổi lớn hơn (13–20, 21–30, 31–40, 41–50, 51–60 và > 60 năm), tỷ lệ tử vong theo độ tuổi của các trường hợp luôn vượt quá tỷ lệ của các đối chứng. Những hạn chế của nghiên cứu này bao gồm không thể xác nhận chẩn đoán SMA hoặc loại SMA bằng xác nhận di truyền hoặc lâm sàng. Bệnh nhân SMA ở mọi lứa tuổi, bao gồm người lớn và bệnh nhân loại III, có tỷ lệ tử vong tất cả nguyên nhân cao hơn so với các đối chứng cùng độ tuổi trong thời kỳ trước điều trị.
#SMA #tỷ lệ tử vong #độ tuổi #đối chứng #hồ sơ sức khỏe điện tử
Tổng số: 52   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6